More

    Ricky Martin và “Chiếc Cup Cuộc Đời”

    Có thể nhận thấy càng về sau này thì phong cách nhạc Latinh đang dần chiếm lĩnh thị trường âm nhạc nói chung và màu sắc nhạc chủ đạo ở các sự kiện bóng đá nói riêng.

    Nếu ai đó hỏi tôi có thể liệt kê được bao nhiêu bài nhạc chủ đề ở các kì World Cup thì với tư cách là một fan bóng đá và một người viết bài nhận xét nhiệp dư thì tôi cũng xin trả lời luôn đó là 5:

    • Un’estate Italiana (Mùa hè nước Ý) – World Cup 1990.
    • Celebrate the Day – World Cup 2006.
    • Waka Waka – World Cup 2010.
    • Waving Flag – World Cup 2010.
    • We Are One – World Cup 2014.
    World Cup 1990

    Còn lại những bài hát của các kì World Cup khác thì tôi xin thua vì hoàn toàn không thể nhớ dù đã coi bóng đá từ những năm 5-6 tuổi dù lúc đó cũng chả hiểu gì nhiều. Tuy nhiên, có một huyền thoại về một bài hát không thể được xếp hạng vì nó đã nằm ngoài hết mọi quy luật xếp hạng, một bài hát phá vỡ hết tất cả rào cản của ngôn ngữ, tuổi tác, màu da… Từ những con đường đầy ánh sáng ở Paris hoa lệ tới những ngóc ngách bụi bặm trong những con hẻm ngoằn ngoèo ở đất Sài Gòn, tất cả đều hát vang giai điệu ‘Go go go, ale ale ale’ vào những năm cuối của thậm niên 90, từ già tới trẻ, từ thôn quê tới đô thành, mặc dù rất nhiều trong số họ còn chả biết bài hát từ đâu ra, tên gì và do ai trình bày. Tất cả đã nói lên tầm ảnh hưởng “siêu cấp vũ trụ” của The Cup of Life do danh ca Latinh người Puerto Rico, Ricky Martin trình bày và là bài hát chính thức của kì World Cup 1998 trên đất Pháp.

    Trong cuộc thăm dò ý kiến do tạp chí Billboard thực hiện trước kỳ World Cup 2018, “The Cup of Life” đã nằm trong top những ca khúc được yêu thích của giải đấu, cùng “Waka Waka” của Shakira ở World Cup 2010. Chuyên trang thể thao SportSkeeda cũng xếp The Cup of Life là bài hát chủ điểm World Cup hay nhất mọi thời đại. The Cup of Life có tên tiếng Tây Ban Nha là ‘La Copa de la Vida’, là ca khúc có thể nói được ít nhất hơn 1.4 tỷ người yêu thích và biết đến trên thế giới nhờ giai điệu rộn ràng, ca từ phù hợp với tinh thần máu lửa của môn thể thao vua.

    Thời điểm ca khúc ra đời, Ricky Martin đã 27 tuổi và vẫn chưa phải tên tuổi lớn trong làng nhạc thế giới. Việc chọn một ca sĩ còn khá vô danh đến từ đất nước xa xôi ở vùng Caribbean, Puerto Rico như Ricky Martin quả là một nước đi rất táo bạo của FIFA. Không rõ lí do đứng sau quyết định này nhưng FIFA đã không sai mà còn gián tiếp biến Ricky Martin lên thành hàng ngũ biểu tượng của âm nhạc đại chúng chỉ bằng một hit track. Ricky đã chọn hợp tác với team sáng tác và producer là Desmond Child, Draco Rosa và Luis Gómez Escolar và thống nhất với ê-kíp về ý tưởng phải tạo ra dược một nhạc phẩm “có thể kết nối đám đông và khiến họ bùng nổ mãnh liệt nhất”.

    Thời điểm ấy, phong trào nhạc Latinh đang bắt đầu lớn mạnh và được đẩy thành một xu thế chính trong dòng chảy âm nhạc đại chúng Mỹ, châu Âu và cả thế giới. Công thức này ngày nay vẫn được các ngôi sao của dòng nhạc Latinh áp dụng và thành công rực rỡ, với ‘Despacitos’ là một ví dụ điển hình. Ricky Martin cảm nhận đây sẽ là một bài hát ăn khách và anh quyết định đưa ca khúc này vào album sắp phát hành của mình mang tên “Vuelve”. Tháng 2/1998, album Vuelve được phát hành và đến ngày 3/3 ca khúc “La Copa De La Vida” lần đầu tiên ra mắt dưới dạng đĩa đơn. Ngay lập tức, đúng như dự đoán, ca khúc này đánh sập hầu hết các bảng xếp hạng uy tín nhất trên thế giới. Chỉ một thời gian ngắn, Ricky Martin được cả thế giới đón nhận. Không dừng lại ở đó, Ricky “bồi” tiếp bằng phiên bản tiếng Anh có tựa đề “The Cup Of Life” mà chúng ta đã biết ngày hôm nay. Từ bên kia bờ Đại Tây Dương, những ông chủ quyền lực của làng showbiz Mỹ đã tìm thấy được một ngôi sao mới trên bầu trời. Năm ấy Ricky Martin 27 tuổi, và The Cup Of Life chính là ca khúc tiếng Anh đầu tiên mà anh phát hành.

    Vào ngày 12/7/1998, Ricky Martin biểu diễn ca khúc ruột của mình tại lễ bế mạc World Cup trên sân vận động Stade de France huyền thoại ở vùng Saint-Denis, khép lại một mùa hè sôi động và ngập tràn cảm xúc của vòng chung kết World Cup cuối cùng của thế kỷ 20. Anh mặc bộ suit màu xanh đậm, khoe những vũ đạo Latinh bốc lửa qua từng cú lắc hông khiến bao fan nữ phải tan nát. Nam danh ca thể hiện cả phiên bản tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha của bài hát, bên dàn nhạc công đông lên đến vài chục người. Trên khán đài, cổ động viên hai đội Pháp và Brazil hò hét hào hứng phiêu theo điệu nhạc. Theo thống kê, 1.4 tỷ người từ 178 quốc gia đã dõi theo màn trình diễn của Ricky. Dù Brazil thất bại, truyền thông Nam Mỹ vẫn tự hào khi âm nhạc Latinh vang lên trên một đất nước châu Âu cổ kính. Vượt qua khuôn khổ của một giải bóng đá, The Cup of Life trở thành bản hit bất hủ, là dấu ấn đẹp nhất, huy hoàng nhất trong sự nghiệp ca hát của Ricky Martin.

    Ricky Martin

    Ngày 24/2/1999 khi Ricky Martin khuấy động nhà hát Shrine ở Los Angeles trong đêm trao giải Grammy lần thứ 41 với ca khúc huyền thoại của mình. Để có được giây phút ấy, Ricky Martin đã phải chuẩn bị cả năm trời và cũng trong ngay đêm ấy anh đã nhận giải Grammy đầu tiên của mình trong sự nghiệp mình với hạng mục Màn biểu diễn nhạc Latinh xuất sắc nhất.

    Chính “The Cup Of Life” tạo ra một chuẩn mực mới phi biên giới tạo đà cho một loạt sáng tác sau này đều mang âm hưởng Latinh của các kỳ World Cup. Chính The Cup Of Life đã mở ra một diện mạo mới và tạo cảm hứng cho nhiều ca khúc chủ điểm cho các giải đấu bóng đá sau này. Ricky thành một ngôi sao mới của cả nước Mỹ và được đàn ông lẫn đàn bà mê đắm.

    Trích một comment trên Youtube: “Chúng tôi cảm thấy thật ghen tị với ba mẹ chúng tôi vì thế hệ của họ có Ricky Martin, còn chúng tôi thì có Cardi B”. Đọc tới đây, nếu fan nam của Cardi B thì các bạn khoan hãy cảm thấy bực bội mà hãy cảm thấy may mắn đi vì Ricky là… ‘người đồng tính’, vì anh ấy đã đánh cắp biết bao nhiêu triệu trái tim thiếu nữ trên thế giới, nhưng anh ấy không nắm giữ mà chỉ chơi đùa với chúng mà thôi. Hãy tưởng tượng nếu ảnh là trai thẳng thì ảnh sẽ trở thành một tay sát gái cự phách ở Hollywood biết chừng nào nhỉ.

    Quay ngược lại với khoảnh khắc trước khi Ricky Martin tạo ra cơn sốt The Cup of Life, cậu nhóc Ricky tuổi teen đã từng làm diễn viên từ năm 8 tuổi, lên 12 tuổi chuyển sang đi hát cho nhóm nhạc có tên là Menudo. Vẫn biết thành công là một chặng đường dài vươn tới nhưng suốt 15 năm trời, con đường âm nhạc của Rick vẫn không đổi được vận hạn, vẫn chỉ là những chuyến đi xa nhà tít tắp, hát và nhảy, nhảy và hát theo điệu nhạc Latinh nhưng chẳng kiếm được bao nhiêu.

    Lắm lúc Ricky muốn bỏ nghề để học tin học nhưng mẹ anh vẫn khuyến khích con mình đi theo nghệ thuật. Từ Puerto Rico, Ricky chia tay Menudo để đến New York ồn ào để theo đuổi nghề nhạc kịch và đóng phim truyền hình nhưng cuối cùng cũng chẳng đến đâu… Ricky Martin đã cố gắng ‘cầm hơi’ đến năm 1998 thì sự nghiệp của anh đã vụt sáng ngay thời điểm huy hoàng nhất. Nói một cách công bằng, The Cup Of Life đã trở thành bệ phóng đưa Ricky Martin lên tầm toàn cầu nhưng những ca sĩ thành công sau một đêm (one-hit wonder) không bao giờ có thể đi xa như anh được. Sự may mắn của Ricky còn nằm ở chỗ thị trường nhạc Latinh lúc đó đang bắt đầu vào cao trào và anh được gọi tên l2 người tiên phong mở đường, lấn sân từ Latinh truyền thống sang Latinh Pop trong thị trường mainstream chính thống. Suốt 15 năm đằng đẵng quần quật với âm nhạc, Ricky Martin thừa hiểu mình phải nắm bắt cơ hội và cố gắng như thế nào. The Cup Of Life mãi mãi là thành công quan trọng nhất trong sự nghiệp của Ricky cho tới tận lúc này.

    Riêng với khán giả cuối 8x, đầu 9x ở Việt Nam, “The Cup of Life” đã chứa đựng những ký ức đẹp đẽ nhất về mùa hè mê say cùng môn thể thao vua ở những năm cuối thậm niên 90. Kênh ca nhạc giải trí hàng đầu, MTV đều đặn phát bài hát này vài lần mỗi ngày. Các video tổng hợp các bàn thắng đều được lồng ca khúc này. Ở những giờ giải lao giữa hai hiệp, người ta cũng nghe thấy giai điệu của The Cup of Life vang lên khắp các sân vận động. Từ năm 1998 đến đầu thập niên 2000, hình ảnh những cậu nhóc cởi trần, lắm lem bùn đất, rê bóng khắp các con đường trong các khu xóm và hát vang “Go, go, go, ale, ale, ale” xuất hiện ở mọi vùng miền.

    Những cô bé, cậu bé năm ấy có thể không hiểu ý nghĩa câu hát, nhưng với họ, giai điệu ấy rất thân quen. Có thể sau này, sẽ có rất nhiều bài nhạc Latinh chủ điểm ở các kỳ World Cup nhưng chắc chắn sẽ chẳng có bài hát nào có sức ảnh hưởng kinh khủng tới các con nghiện túc cầu giáo ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung như The Cup of Life.

    “Bà năm bán chè, 500 một chén, thằng Bi nó mừng xách chén ra mua. Nào đâu có ngờ, 5 đô một chén, thằng Bi nó buồn xách chén đi vô”.

    Bài viết gần đây

    Chủ đề liên quan

    BÌNH LUẬN

    Vui lòng nhập bình luận của bạn
    Vui lòng nhập tên của bạn ở đây